• :
  • :
Trung tâm kiểm soát bệnh tật Thái Bình: Chuyên nghiệp - Tận tâm - Vì cộng đồng
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Một số bệnh nguy hiểm thường gặp ở tuổi dậy thì nam và nữ

Dậy thì là một mốc phát triển quan trọng trong cuộc đời nhưng khi quá trình này đến sớm hơn bình thường, trẻ phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe và tâm lý nghiêm trọng.

Thông thường tuổi dậy thì (nam từ 13 – 18 tuổi, nữ từ 11 – 15 tuổi) là giai đoạn phát triển thần tốc trong cơ thể. Tuổi dậy thì có những thay đổi về sinh lý rất dễ nhầm lẫn với bệnh lý hoặc có bệnh lý nhưng lại bị bỏ sót. Các bệnh thuộc từng nhóm khác nhau bao gồm:

1.Bệnh của hệ tâm thần kinh

 Rối loạn tâm lý

Tuổi dậy thì là lứa tuổi có nhiều thay đổi về tâm sinh lý, các em thường dễ bị tác động bởi chuyện học hành nhất là khi bước vào mùa thi.

Biểu hiện thường gặp của rối loạn tâm lý tuổi dậy thì là biếng ăn, mệt mỏi, mất ngủ, dễ cáu gắt và lo âu.

Biểu hiện nặng hơn là các em nói năng lung tung, khóc cười vô cớ, dễ hoảng sợ, ngại tiếp xúc với người khác và thậm chí còn có ý định tự tử.

 Đau đầu

Đau đầu cũng là 1 trong các bệnh thường gặp ở tuổi dậy thì nam và nữ do sự thay đổi đột ngột hoạt động của các neuron thần kinh trong não hoặc sự thay đổi áp lực trong các mạch máu có nhiệm vụ cung cấp máu lên não.

Một số em gái có cảm giác đau đầu trong thời gian hành kinh hoặc cảm giác nhức đầu, chóng mặt, choáng váng khi đứng dậy.

Tình trạng đau đầu chỉ là sự phát triển bình thường của sinh lý lứa tuổi. Tuy nhiên, cũng không loại trừ được đây là dấu hiệu của những thương tổn trong não như u não, áp lực trong não tăng cao, viêm màng não, viêm não.

 Stress

Stress ở tuổi dậy thì thường xuất hiện khi các em gặp khó khăn trong học tập, thi cử, bị điểm kém, áp lực từ gia đình, mâu thuẫn với bạn bè, rắc rối trong tình cảm. Nếu gia đình bỏ bê, bạo lực, cha mẹ bất hòa hay ly dị càng khiến các em tuổi dậy thì dễ gặp stress.

Các trường hợp stress nặng dễ khởi phát hành vi tự tử, do đó các em cần sự chia sẻ, thông cảm và tôn trọng từ phía cha mẹ và thầy cô.

 Rối loạn hành vi

Biểu hiện của rối loạn hành vi thường gặp là đánh nhau, nói bậy, ăn cắp, đua xe,... xuất hiện lặp đi lặp lại và kéo dài ít nhất 6 tháng.

Những rối loạn hành vi nhẹ có thể thuyên giảm theo thời gian.

Những rối loạn hành vi nặng có khuynh hướng trở thành mãn tính. Các em rất khó thích ứng với xã hội, dẫn đến hành vi chống đối và phạm pháp.

Việc điều trị rối loạn hành vi ở tuổi dậy thì đòi hỏi phải kiên trì, kéo dài và có sự phối hợp chặt chẽ của gia đình, nhà trường, bác sĩ tâm thần và xã hội.

2.Bệnh ngoài da thường gặp ở tuổi dậy thì ở cả nam và nữ

Mụn trứng cá

Mụn trứng cá là một bệnh ngoài da thường gặp ở tuổi dậy thì mặc dù không gây hại nhiều đến sức khỏe nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến thẩm mỹ và tâm lý giới trẻ. Các bạn trong tuổi dậy thì bị nhiều mụn trứng cá dễ có cảm giác tự ti trong giao tiếp, xa lánh bạn bè và tránh nơi đông người, thậm chí có thể bị trầm cảm. Nếu không biết chăm sóc và điều trị đúng cách có thể để lại sẹo xấu gây ảnh hưởng tâm sinh lý vĩnh viễn.

Nguyên nhân gây mụn trứng cá là do chất cặn bã bịt kín lỗ chân lông tạo điều kiện cho lỗ chân lông bị nhiễm trùng gây nên bài tiết không tốt làm cho chất thải tích trên da, kích thích da làm sinh ra mụn trứng cá.

Rửa mặt thường xuyên, tránh không sử dụng mỹ phẩm chứa nhiều chất dầu có thể làm giảm sự xuất hiện của mụn trứng cá. Khi bị mụn trứng cá cần phải dùng dụng cụ chuyên dùng để nặn mụn, không nên dùng tay để nặn.

Bệnh hắc lào

Biểu hiện là các đám tổn thương lúc đầu hơi đỏ có ranh giới rõ rệt, bờ viền, trên bờ viền có những mụn nước nhỏ, dần dần lan rộng thành đám có nhiều vòng cung.

Nếu các em gãi nhiều, chà xát, bôi thuốc không đúng cách gây viêm da thứ phát, gây ngứa khó chịu, khó chữa.

3. Kinh nguyệt thất thường

Kinh nguyệt thất thường là 1 trong các bệnh thường gặp ở tuổi dậy thì nữ, các em có thể gặp phải các tình huống sau:

Kinh nguyệt ít hoặc không có kinh: có thể những trường hợp này là do tử cung phát triển không hoàn chỉnh, các em có thể cảm thấy chóng mặt, dễ mệt mỏi.

Kinh nguyệt quá nhiều: Bệnh nhân thường bị đau bụng khi hành kinh, điều trị bằng hormone là khỏi.

Đau bụng kinh: Kinh nguyệt đều nhưng kèm theo đau bụng dưới mỗi khi hành kinh.

Âm đạo có chất dịch khác thường: Bình thường chất dịch tiết ra ở âm đạo phải là không màu và không mùi, nếu bị nhiễm khuẩn thì sẽ có màu vàng, có mùi và cảm giác khó chịu.

4.Các bệnh khác

 Viêm khớp tự phát thiếu niên

Tình trạng viêm khớp mạn tính kéo dài ít nhất 6 tuần, khởi phát bệnh trước 16 tuổi là một trong những nhóm bệnh hay gặp nhất.

Đây là một bệnh tự miễn, nguyên nhân gây bệnh chưa được rõ ràng với diễn biến bệnh phức tạp, khó nhận biết và tiên lượng.Bệnh thường khởi phát sau nhiễm virus, vi khuẩn.

 Thiếu máu nhược sắc

Nguyên nhân là do trong vài năm đầu chu kỳ kinh hầu hết các em gái có chu kỳ kinh không ổn định, ngày có kinh nguyệt kéo dài hơn 1 tuần làm cho các em mất nhiều máu hơn và lượng sắt của cơ thể cũng vì thế mà giảm sút.

Lứa tuổi học sinh, tỷ lệ các em bị nhiễm giun đũa, giun móc rất cao. Giun lấy chất dinh dưỡng của cơ thể gây tổn thương niêm mạc ruột, làm mất máu và việc hấp thu sắt giảm sút.

5. Lời khuyên của thầy thuốc

Ở lứa tuổi dậy thì, cần được cung cấp thêm những thực phẩm giàu canxi, sắt, kẽm, iốt. Canxi giúp phát triển khối xương, có nhiều trong sữa, sản phẩm từ sữa, tôm tép, đậu hũ và rau xanh. Việc cung cấp đủ canxi ở giai đoạn dậy thì không chỉ giúp trẻ phát triển chiều cao, tăng độ chắc xương mà còn giảm nguy cơ gãy xương khi về già. Kẽm cần thiết cho sự phát triển khối cơ và hệ sinh dục; có nhiều trong thực phẩm giàu đạm (thịt gia cầm, trứng, sữa...) và ngũ cốc nguyên hạt. Sắt cần cho sự tạo máu và sự hình thành myoglobin ở cơ bắp. Nam cần sắt nhiều hơn nữ để phát triển khối cơ, tuy nhiên, các em nữ bắt đầu có hiện tượng mất máu sinh lý hằng tháng qua chu kỳ kinh nguyệt nên nhu cầu sắt bổ sung ở nữ lại cao hơn. Sắt có nhiều trong gan, tiết, thịt, cá, trứng và rau xanh. Sắt trong thức ăn có nguồn gốc động vật sẽ dễ hấp thu hơn thực vật. Nếu bị thiếu iốt dẫn đến bệnh bướu cổ, trí tuệ không phát triển, thấp lùn, làm não bị tổn thương, dẫn đến trì trệ, chất lượng tiếp thu kiến thức giảm./.


Tác giả: Thanh Tâm
Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá
Click để đánh giá bài viết