• :
  • :
Trung tâm kiểm soát bệnh tật Thái Bình: Chuyên nghiệp - Tận tâm - Vì cộng đồng
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Phòng, chống bệnh bạch hầu

Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây nên. Bệnh thường gặp ở trẻ em <15 tuổi, tuy nhiên cũng có thể gặp ở người lớn nếu chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu do chưa được tiêm vắc xin đầy đủ.

Ở Việt Nam, thời kỳ chưa thực hiện tiêm vắc xin bạch hầu trong Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR), bệnh bạch hầu thường xảy ra và gây dịch ở hầu hết các tỉnh. Bệnh xuất hiện nhiều vào mùa thu đông (tháng 8, 9, 10). Từ năm 1981, do thực hiện tốt việc tiêm vắc xin bạch hầu nên tỷ lệ mắc bạch hầu ở Việt Nam đã giảm từ 3,95/100.000 dân (năm 1985) xuống 0,14/100.000 dân (năm 2000) và đến năm 2014, tỷ lệ này còn dưới 0,01 ca/100.000 dân.

Vi khuẩn bạch hầu thường khu trú, làm tổn thương đường hô hấp trên (mũi, họng, thanh quản) tạo giả mạc dai dính, khó bóc tách và sinh ra ngoại độc tố gây nhiễm độc toàn thân (tim, thận, thần kinh), gây tử vong do tắc đường thở và viêm cơ tim. Tỷ lệ tử vong khoảng 5-10%, tỷ lệ tử vong ở trẻ nhỏ cao hơn. Vi khuẩn bạch hầu sống lâu ở giả mạc và họng của bệnh nhân. Trong điều kiện thiếu ánh sáng vi khuẩn sống tới 06 tháng và tồn tại lâu trên các đồ chơi của trẻ bị bạch hầu, áo blue của nhân viên y tế,…

Các thể bệnh bạch hầu hay gặp gồm: bạch hầu họng (70%), bạch hầu thanh quản (20-30%), bạch hầu mũi (4%), bạch hầu mắt (3-8%), bạch hầu da...

Tác nhân gây bệnh bạch hầu

‎‎          Vi khuẩn bạch hầu có 03 týp là Gravis, Mitis và Intermedius.Hình thể vi khuẩn đa dạng, gram (+). Điển hình là trực khuẩn có một hoặc 02 đầu phình to nên còn gọi là trực khuẩn hình chuỳ, dài 2-6 µm, rộng 0,5-1µm. Không sinh nha bào, không di động.

‎          Vi khuẩn có sức đề kháng cao ở ngoài cơ thể và chịu được khô lạnh. Nếu được chất nhày bao quanh bảo vệ thì vi khuẩn có thể sống trên đồ vật vài ngày đến vài tuần; trên đồ vải có thể sống được 30 ngày; trong sữa, nước uống sống đến 20 ngày; trong tử thi sống được 02 tuần.

Vi khuẩn bạch hầu nhạy cảm với các yếu tố lý, hoá. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp, vi khuẩn sẽ bị chết sau vài giờ, ánh sáng khuyếch tán sẽ bị diệt sau vài ngày. Ở nhiệt độ 580C vi khuẩn sống được 10 phút, ở Phenol 1% và cồn 60 độ có thể sống được 01 phút. Bản chất của ngoại độc tố bạch hầu là một protein có tính kháng nguyên đặc hiệu, độc tính cao, không chịu được nhiệt độ và Formol. Ngoại độc tố của các typ vi khuẩn bạch hầu đều giống nhau. Ngoại độc tố khi được xử lý bằng nhiệt độ và focmol sẽ mất độc lực, được gọi là giải độc tố (Anatoxine) dùng làm vắc xin.

 

  Đường lây truyền

- Bệnh bạch hầu lây truyền dễ dàng qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng khi ho, hắt hơi, đặc biệt trong khu vực dân cư đông đúc hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không đảm bảo.

- Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc gián tiếp với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.Vi khuẩn bạch hầu cũng có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da.

Sau khoảng 02 tuần nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân có thể gây lây nhiễm cho người khác.

Dấu hiệu nhận biết bệnh bạch hầu 

- Người mắc bệnh bạch hầu thường xuất hiện những triệu chứng điển hình như sốt nhẹ, họng đỏ, nuốt đau, ho, khàn tiếng, mệt, da hơi xanh, chán ăn. Sau 2-3 ngày, xuất hiện giả mạc mặt sau hoặc hai bên thành họng, có màu trắng ngà, xám hoặc đen. Giả mạc dai, dính, dễ chảy máu. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất để phát hiện bệnh. 

- Ngoài ra, bệnh nhân có thể có dấu hiệu khó thở, nổi hạch ở dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ. Nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời người bệnh có thể hồi phục bình thường. 

Biến chứng: Bệnh có thể gây ra các biến chứng như tắc nghẽn đường hô hấp do giả mạc từ hầu họng lan xuống; viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim, suy tim; liệt do tổn thương các dây thần kinh vận động và có thể tử vong. 

Phòng, chống bệnh bạch hầu

Bệnh bạch hầu chưa được loại trừ ở nước ta, bất kỳ ai cũng có thể mắc bệnh nếu chưa tiêm vắc xin phòng bệnh và tiếp xúc với mầm bệnh. Tiêm vắc xin là biện pháp tốt nhất để phòng bệnh bạch hầu.

Để chủ động phòng, chống bệnh bạch hầu, người dân cần thực hiện tốt các biện pháp sau:

- Thứ nhất, cần đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch.Hiện nay trong Chương trình TCMR, tất cả trẻ em sẽ được tiêm đủ 3 mũi vắc xin phối hợp 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - viêm gan B - viêm phổi, màng não do vi khuẩn Hib (Haemophilus influenzae type b) lúc 2, 3 và 4 tháng tuổi. Tiêm nhắc lại vắc xin bạch hầu - ho gà - uốn ván khi trẻ đủ 18 tháng tuổi. Việc trì hoãn tiêm chủng vì bất cứ lý do gì sẽ khiến cho trẻ có nguy cơ mắc bệnh. 

- Thứ hai, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.

- Thứ ba, đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng, vệ sinh đồ chơi của trẻ.

- Thứ tư, khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.

- Thứ năm, người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh.

Lịch tiêm chủng vaccine phòng bạch hầu trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng như sau:

Mũi 1: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib (phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - viêm gan B - viêm phổi/viêm màng não mủ do Hib) khi trẻ 2 tháng tuổi. 

Mũi 2: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib khi trẻ 3 tháng tuổi. 

Mũi 3: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib khi trẻ 4 tháng tuổi. 

Mũi 4: Tiêm vaccine DPT (phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván) khi trẻ 18 tháng tuổi.


Tác giả: BSCKII Lưu Thị Ánh Tuyết - PGĐ TT KSBT
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
CHUYÊN MỤC
LIÊN KẾT WEB